Tương truyền 500 năm về trước, tại huyện Mỹ Nùng có một vị
tu hành đức hạnh tên là Chánh Thông pháp sư, nhân muốn lập một tòa tùng lâm tại
nơi này, đã đặt chân khắp nơi để tìm địa điểm mà vẫn chưa tìm thấy.
Có một đêm, pháp sư ra suối tắm, khi trở về qua khu rừng, dưới ánh
trăng trong vằng vặc, bỗng nghe có tiếng nho nhỏ gọi:
- Lão Pháp sư! Lão Pháp sư!
Người dừng bước trông chung quanh không thấy một bóng ai cả, trong
lòng lấy làm kỳ quái tưởng là mình nghe lầm nên cứ thản nhiên tiến về thảo am.
Nhưng vừa đi được vài bước, lại nghe có tiếng gọi:
- Pháp sư! Lão Pháp sư!
Chánh Thông pháp sư liền theo hướng tiếng gọi phát lên mà tìm đến
coi thử thì thấy trong đám cỏ dại um tùm trước hoang viện, hiện ra một người
giống hệt dáng hồ ly, chắp tay vái pháp sư.
Pháp sư hoan hỷ hỏi:
- Thế ra nhà ngươi gọi ta?
- Dạ đúng! Người đó trả lời.
- Vậy ngươi có chuyện gì muốn nói cùng ta
Pháp sư hỏi. Người đó chớp chớp đôi mắt nói :
- Có phải lão Pháp sư định tìm một địa điểm
để xây dựng tu viện?
- Làm sao ngươi lại biết?
- Dạ, con là người ở xứ này, có biết một chỗ
rất thích hợp cho việc kiến trúc tu viện. Nếu Pháp sư bằng lòng con xin đưa
Pháp sư đi coi.
Pháp sư nở một nụ cười sung sướng:
- Nguyên lai như thế. Vậy địa điểm ở nơi nào,
xin ngươi đưa ta coi một phen!
Thế là hai bóng đen, ngay trong đêm đó, một
trước một sau, thoăn thoắt băng rừng lội về nẻo Châu Quán Lâm, ở đây có một khu
rừng rộng lớn, cây cối u nhàn, cảnh sắc tuyệt đẹp. Chánh Thông pháp sư rất lấy làm
mãn ý quyết định lập một tòa Tùng Lâm tại chốn rừng này, lấy tên là Mậu Lâm Tự.
Sau khi thành lập ngôi chùa Mậu Lâm rồi,
người khách chỉ đường ấy lại đến nói với Chánh Thông pháp sư:
- Con hy vọng được ở chốn này với Pháp sư để
tu học Phật, vậy xin lão Pháp sư mở lòng từ bi thu làm đệ tử, phỏng có được
không?
Lẽ dĩ nhiên là Chánh Thông pháp sư gật đầu
ưng ngay và đặt tên người đó là Thủ Hạc. Từ đó, Thủ Hạc ngày ngày quét chùa,
lên hương, tụng kinh, thổi cơm, sớm hôm chăm chỉ thật là tinh tiến.
Quang âm thấm thoát trôi mau. Chánh Thông
pháp sư cũng viên tịch, kế đến vị Hoà Thượng thứ hai, thứ ba… vị nào cũng là
bậc cao tăng đại đức kế tiếp trụ trì chùa này, tới vị thứ sáu lên Niết bàn thì
Nguyệt Chu pháp sư thay thế là vị thứ bảy mà Thủ Hạc vẫn thường thọ và mạnh
khỏe như xưa tưởng chừng sống mãi không chết. Thủ Hạc đối với bảy vị Hòa
Thượng, thủy chung vẫn tỏ rất trung thực, thành kính một lòng, không hề xao
lãng một phút những việc quét tước chùa, lên hương, tụng kinh, thổi nấu ăn,
nhất là đối với khách thập phương cùng dân làng chung quanh, Thủ Hạc thường
thường hết lòng giúp đỡ những việc khốn khó.
Năm đó vào năm Phật lịch 2113 pháp sư Nguyệt
Chu sửa soạn cử hành một đại quy mô pháp hội tại Mậu Lâm Tự, dự ước tín đồ thập
phương lại nghe giảng có tới ba, bốn ngàn người, và lúc này tiết trời về tháng
hạ, tất nhiên phải lo vấn đề về nước uống cho chu toàn. Pháp sư bù đầu suy nghĩ
chưa tìm đâu ra được chiếc ấm trà nào to, dung lượng có thể thỏa mãn nước uống
cho bấy nhiêu người.
Thủ Hạc nhìn thấu tình hình ấy liền nói với
Nguyệt Chu pháp sư:
- Thưa Pháp sư! Ấm đựng trà trong chùa chỉ có
thể đủ 50 người uống thôi. Ngày mai có thể tới mấy ngàn người thì làm thế
nào?
- Ðúng, đúng! Ngày mai nhất định có nhiều
người mà ta chưa chuẩn bị được đủ số ấm đựng nước… (Pháp sư thở dài tiếp) không
biết tính sao đây???
- Nếu vậy con xin đến xứ Giang Hộ, mượn một
chiếc ấm trà thật lớn về đây, sư phụ tính sao?
- Ðến xứ Giang Hộ, cha chả! Ðường xa mấy ngàn
dặm, làm sao mà tới được trong một đêm? Vả chăng, dù có đi tới xứ Giang Hộ đi
nữa, chắc gì đã mang được ấm trà về?
- Xin pháp sư phóng tâm! Nhất định con mang
về được. Bây giờ còn sớm con xin đi ngay, kẻo muộn không kịp.
Thủ Hạc nói xong, mặc giầy cỏ vào chân, thoắt
một cái đã bước ra khỏi chùa. Còn pháp sư trong lòng vẩn vơ nghĩ, nếu Thủ Hạc
có mượn được ấm cũng chẳng thể đem về kịp ngày mai…
Sớm hơm sau, Nguyệt Chu pháp sư còn đang tọa
thiền trong phòng bỗng cánh cửa phòng hé mở, thấy Thủ Hạc đã chắp tay bạch:
- Bạch Pháp sư, con đã về.
Pháp sư trông qua song cửa ra ngoài hiên thấy
chiếc ấm to lớn để thù lù ngăn cả lối đi thì kinh ngạc chưa kịp hỏi, bỗng Thủ
Hạc đã trỏ ấm trà cười bảo:
- Có chiếc ấm này rồi, tất không còn sợ nhiều
khách hay ít khách nữa.
Nguyệt Chu pháp sư tấm tắc khen ngợi Thủ Hạc:
- Thật là chiếc ấm khổng lồ, to quá! to quá!
- Chắc vác về vất vả lắm đấy!
Thủ Hạc đem ấm trà xuống phòng, đổ nước vào
đun sôi thì lạ thay trong ấm bốc ra một hương thơm lạ lùng, ai uống vào cũng
thấy nhẹ nhàng, dễ chịu, mà chẳng còn nóng nực chút nào. Nhân thế, người người
xúm lại xin nước uống lấy uống để:
- Cho tôi một chén!
- Tôi… tôi… một chén nữa!
Thực ra, Thủ Hạc đem chiếc ấm trà này về
chẳng khác gì đem về một ngọn suối, cứ việc đậy chặt nắp lại là nước tuôn ra
bất tuyệt, dùng bao nhiêu cũng không hết và uống xong là hết khát liền. Các
người thấy lạ, thì cho là chuyện hết sức huyền bí liền hỏi Thủ Hạc:
- Thủ Hạc sư phó! Ấm trà này thật là kỳ diệu,
tại sao lại được như thế, hử sư phó?
Thủ Hạc nở nụ cười vui sướng nói với quần
chúng:
- Ấm trà này gọi là Phúc Ðức Hồ, trong có tám
món công đức nên khi uống vào thấy:
1/ Không sanh bệnh.
2/ Thêm sức
3/ Không sợ sệt.
4/ Sanh trí tuệ.
5/ Có nhân duyên.
6/ Ðược người tôn kính.
7/ Trừ tai nạn; và sau hết.
8/ Ðược trường thọ. Nhân có công đức như vậy
Phật tử nên uống nữa đi! Uống nhiều càng tốt.
Sau khi pháp hội viên mãn, chiếc ấm trà này
trở nên một vật trân bảo của chùa Mậu Lâm.
Thủ Hạc với một tuổi thọ phi thường dài lâu,
ông còn sống tới vị trụ trì thứ 10, là pháp sư Thiên Nam, mà thân thể vẫn tráng
kiện như còn trẻ. Tất cả người trong vùng ai cũng tỏ vẻ cung kính ông. Nhất là
bàn đến chiếc ấm Phúc Ðức Lồ, tức ấm trà không ai là không ngớt tán tưởng và
nổi lên nghị luận xôn xao.
- Thủ Hạc sư phó chẳng phải là người tầm
thường phổ thông như ai!
- Ðúng, đúng! Nếu không giỏi thì sao một mình
mang nổi chiếc ấm to như thế?
- Theo ý tôi, sống tới hơn 100 năm không chết
mà còn mạnh khỏe như thế, tất nhiên là hồ ly…
*
Tới năm Phật lịch thứ 2130, ngày 28 tháng 2, một buổi nọ trời xuân ấm áp, trăm
hoa đua nở, con hoàng oanh trong bụi cất tiếng hót líu lo làm thức tỉnh cảnh u
tĩnh của chùa Mậu Lâm. Thủ Hạc ngồi tắm ánh dương quang ở hành lang chùa, trong
lòng cảm thấy khoan khoái êm đềm, bất giác ngủ đi lúc nào không biết. Vừa lúc
đó, có một vị Sa di đi tới, bỗng hoảng nhiên trông thấy một chú cáo già đang
ngon giấc, phát lên tiếng ngáy khò khò, thì thất kinh tán đảm kêu lên:
- Hồ ly! Hồ ly!...
Thủ Hạc bị Sa di làm kinh động liền tỉnh dậy
chưa kịp thu hình thì tứ phía đã xúm lại đông nghịt cùng xỉa xói xỉ vả:
- Bây giờ mới rơi mặt nạ nhé! Thì ra mi là
một con hồ ly! Cứ tưởng mi lại đây nương nhờ Chánh Thông pháp sư giáo huấn tu
hành học Phật để thoát cái nghiệp chướng súc sinh nào ngờ ngày nay hồ lại hoàn
hồ!!! Thôi nhé! Từ nay trở đi biết đường biết nẻo thì cút, nghe chưa!
Tiếng lao xao vang đến tai Pháp sư trụ
trì. Người liền ra tận nơi, Thủ Hạc thấy Pháp sư liền cung kính bạch:
- Bạch Pháp sư cùng chư đồng đạo! Ðã từ lâu,
tôi được ơn dày chiếu cố, thật cảm kích bội phần. Nay vì báo đáp từ ân đem lực
thần thông ra diễn một đoạn việc xưa, vậy toàn thể hãy nhìn vào phía rừng rậm
kia.
Mọi người nghe xong liền trông thẳng vào
rừng, thấy hiện ra một cảnh giới trang nghiêm không đâu sánh kịp, trong đó có
hình ảnh Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni trên núi Linh Thứu đang thuyết pháp, tại tọa
có tới 1250 cao cấp đệ tử và mấy nghìn vạn Thiên Long Bát Bộ, ai cũng tâm niệm
niệm nghe Phật thuyết pháp. Mọi người thấy thế đều kinh lạ phép Phật thì cùng
thụp lạy.
Thủ Hạc đợi mọi người ngẩng đầu lên, liền cất
tiếng từ biệt:
- Giờ đây, tôi xin từ biệt quý vị. Chiếc ấm
trà Phúc Ðức Lồ lưu lại chùa này để làm kỷ niệm, dám xin quí vị bảo vệ cho!
Thôi, xin chào quí vị ở lại!
Nói xong, Thủ Hạc lao thân như chớp vào rừng
biến mất.
PHẠM NGỌC KHU
Tuy mang xác thân cầm thú mà tư tưởng đầy lòng từ bi, vị tha… Ðó tức là
người… Trái lại, hình hài là người mà tâm địa đầy dẫy lòng ích kỷ, tham lam độc
ác, dã man vô nhân đạo, kẻ ấy đã là thú.